Dịch

Tiểu sử

Tiến sĩ Rosenberg là Giáo sư Thần kinh học, đồng thời đảm nhiệm các lĩnh vực Sinh học Tế bào, Khoa học thần kinh, Toán học và Thống kê. Ông gia nhập khoa Thần kinh học năm 1976 và hiện là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bệnh Alzheimer ở ​​New Mexico (NM ADRC). Ông là Giám đốc sáng lập của Trung tâm Trí nhớ và Lão hóa UNM. Từ năm 1985 đến 2015, ông giữ chức Chủ tịch Khoa Thần kinh và đã đào tạo nhiều nhà thần kinh học. Ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Y khoa Albert Einstein và được đào tạo về Thần kinh học ở đó. Anh học ngành kỹ thuật y sinh tại Đại học Technion ở Haifa, Israel. Nghiên cứu hiện tại của ông là cải thiện chẩn đoán ở bệnh nhân sa sút trí tuệ bằng cách sử dụng dấu ấn sinh học và học máy. Ông là một chuyên gia về suy giảm nhận thức mạch máu. Ông đã xuất bản hơn 168 bài báo và viết hai cuốn sách. Ông liên tục được NIH tài trợ từ năm 1983 và hiện là Điều tra viên chính của hai khoản tài trợ lớn của NIH.

Đơn trình bày nguyện vọng cá nhân (Personal Statement)

Tôi là Bác sĩ-Nhà khoa học lâm sàng được đào tạo lâm sàng về Thần kinh học dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Robert Katzman. Trong suốt sự nghiệp của mình, tôi đã tham gia nghiên cứu về sinh bệnh học của các rối loạn thần kinh. Các nghiên cứu ban đầu trên động vật tập trung vào vai trò của dịch kẽ (ISF) và dịch não tủy (CSF). Tôi đã chỉ ra rằng ISF di chuyển chủ yếu trong chất trắng bằng dòng chảy lớn hơn là khuếch tán. Công việc này rất quan trọng để hiểu được tổn thương chất trắng có liên quan đến suy giảm nhận thức mạch máu và chứng mất trí nhớ (VCID). Tôi đã dành một kỳ nghỉ phép với Giáo sư Michael Bradbury tại King's College ở London, nơi tôi học các phương pháp nghiên cứu sinh lý hàng rào máu não (BBB) ​​ở loài gặm nhấm. Sự quan tâm của tôi đối với ISF và ma trận ngoại bào (ECM), dẫn đến việc phát hiện ra vai trò của ma trận- metallicoproteinase (MMP) trong việc phá vỡ BBB; tác phẩm này đã được trích dẫn rộng rãi và vẫn là trọng tâm được nhiều nhà điều tra quan tâm. Là một phần của nghiên cứu trong ECM, tôi phát hiện ra rằng collagenase của vi khuẩn gây ra xuất huyết nội sọ (ICH), dẫn đến một trong những mô hình ICH được sử dụng thường xuyên nhất. Nghiên cứu hiện tại của tôi là về vai trò của MMP đối với tình trạng viêm thần kinh ở bệnh mất trí nhớ. Những nghiên cứu đó ở loài gặm nhấm đã được mở rộng sang người và chúng tôi đã phát triển các phương pháp để đo MMP trong CSF. Ngoài ra, chúng tôi đã điều chỉnh cho phù hợp với con người phương pháp đo tính thấm BBB bằng MRI tăng cường độ tương phản. Những thay đổi về chất trắng trên MRI rất quan trọng đối với cả VCID và bệnh Alzheimer (AD). Mối quan tâm ban đầu của tôi về tổn thương chất trắng bắt đầu từ một bệnh nhân mà tôi đã báo cáo mắc bệnh Binswanger (BD); đây là bệnh nhân BD đầu tiên được chẩn đoán bằng CT khi còn sống và được xác nhận khi khám nghiệm tử thi. Chúng tôi đã chỉ ra rằng các MMP hiện diện trong CSF của bệnh nhân mắc VCID và chúng có liên quan đến sự gián đoạn của BBB. Gần đây, với tư cách là một phần của tập đoàn MarkVCID, chúng tôi đã chỉ ra rằng các dấu ấn sinh học gây viêm trong CSF, chẳng hạn như MMP có thể được sử dụng để phân tách bệnh nhân mắc VCID khỏi AD và để xác định bệnh nhân sa sút trí tuệ hỗn hợp trong suốt cuộc đời. Chúng tôi có một nhóm gồm các chuyên gia MRI, nhà hóa sinh và nhà thống kê và là một phần của VCID, chúng tôi đã hợp tác chặt chẽ với nhóm của Charlie DeCarli để xác định các dấu ấn sinh học tối ưu sử dụng nhằm phân loại chính xác hơn bệnh nhân sa sút trí tuệ thành các nhóm nhỏ. Vai trò của tôi trong đề xuất do RFA điều hành này sẽ là cung cấp cho một nhóm bệnh nhân đã được nghiên cứu rộng rãi và theo dõi trong nhiều năm tất cả các dấu ấn sinh học được MarkVCID chọn và nghiên cứu các phương pháp phân tích mới.