Trẻ em được đưa vào khoa cấp cứu của bệnh viện vì có thể bị chấn thương cột sống cổ thường được chụp cắt lớp vi tính (CT) cổ để bác sĩ có thể đánh giá tốt hơn tình trạng của chúng, nhưng quy trình chụp ảnh khiến chúng tiếp xúc với bức xạ ion hóa, làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư.
Các nhà nghiên cứu của Đại học New Mexico đã tham gia vào một nghiên cứu quan sát đa địa điểm quy mô lớn đã dẫn đến việc phát triển một phương pháp mới để đánh giá một cách đáng tin cậy khi nào hoặc liệu một bệnh nhân nhi có cần chụp CT hoặc X-quang để điều trị chấn thương cổ hay không.
Trong một nghiên cứu được công bố ngày 4 tháng XNUMX năm Sức khỏe Trẻ em & Vị thành niên Lancet, các nhà nghiên cứu trong Mạng nghiên cứu ứng dụng chăm sóc khẩn cấp nhi khoa (PECARN) đã tạo ra một quy tắc dự đoán chấn thương cột sống cổ có độ chính xác cao. Khi áp dụng, công cụ này giúp giảm hơn 50% việc sử dụng CT mà không bỏ sót các tổn thương đáng kể về mặt lâm sàng hoặc tăng cường sử dụng tia X thông thường.
Robert Sapien, MD, MMM, giáo sư và giám đốc Khoa Cấp cứu Nhi khoa của Trường Y UNM, cho biết: Khoa cấp cứu nhi khoa của Bệnh viện UNM là một trong 18 bác sĩ cấp cứu nhi khoa tham gia vào nghiên cứu kéo dài 22,000 năm, thu hút hơn XNUMX trẻ em trên toàn quốc. .
Sapien cho biết: “Mặc dù nghiên cứu được thực hiện tại khoa cấp cứu nhi khoa trong bệnh viện nhi, nhưng đại đa số trẻ em bị bệnh hoặc bị thương thực sự không được chăm sóc tại khoa cấp cứu nhi khoa - chúng được chăm sóc tại các phòng cấp cứu cộng đồng”. “Đó là nơi điều này có thể sẽ có tác động lớn nhất vì nó đưa ra quy tắc dự đoán và một số hướng dẫn.”
Các nhà nghiên cứu cho biết, trẻ em được đánh giá trong nghiên cứu này bị thương ở cổ theo nhiều cách khác nhau, bao gồm tai nạn ô tô, té ngã, lặn và các hoạt động thể thao, cũng như trong các vụ ẩu đả hoặc trường hợp nghi ngờ lạm dụng trẻ em. Trong những trường hợp như vậy, việc chẩn đoán chính xác là rất quan trọng vì chấn thương tủy sống ở cổ có thể gây tê liệt và thậm chí tử vong.
Quy tắc dự đoán PECARN thu được rất dễ dàng cho các bác sĩ sử dụng, chỉ dựa vào các triệu chứng của trẻ và khám thực thể khi đến khoa cấp cứu. Dự đoán bao gồm chín phát hiện lâm sàng, bốn trong số đó chỉ định một đứa trẻ là “có nguy cơ cao” bị chấn thương cột sống cổ và thích hợp để sàng lọc ban đầu bằng CT.
Sapien nói: “Nếu họ không có những yếu tố rủi ro đó thì thực sự không có nguy cơ họ bị chấn thương cổ.
Nghiên cứu báo cáo rằng hơn tám triệu trẻ em được đánh giá có khả năng bị chấn thương cột sống cổ mỗi năm, tuy nhiên chỉ có chưa đến 1% thực sự được phát hiện bị chấn thương cột sống cổ. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân trong số đó được chụp CT, có thể chụp ảnh cả tủy sống và đốt sống cổ, để mang lại sự yên tâm cho các bác sĩ và gia đình bệnh nhân.
Nhưng thủ tục chẩn đoán có thể gây hại nhiều hơn là có lợi. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những đứa trẻ được chụp CT có tỷ lệ mắc ung thư cao hơn 24% trong thập kỷ đầu tiên so với những đứa trẻ không được chụp CT. Ngoài ra, chụp CT cột sống cổ một lần trong thời thơ ấu sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến giáp suốt đời lên 78%.
Sapien cho biết mạng nghiên cứu PECARN trước đây đã công bố một nghiên cứu về việc sử dụng chụp CT trong các chấn thương đầu ở trẻ em, dẫn đến việc áp dụng các quy tắc mới về thời điểm nên yêu cầu chụp CT. Một công cụ đánh giá trực tuyến giúp bác sĩ dễ dàng nhập một số điểm dữ liệu để đưa ra khuyến nghị về việc có nên chụp ảnh hay không. Ông nói, điều này cho phép họ có một cuộc trò chuyện đầy đủ thông tin với phụ huynh về việc liệu có cần tiến hành xét nghiệm thêm hay không.
Nhiều khi gia đình không thoải mái lắm nếu tôi nói: 'Tôi không nghĩ con bạn cần chụp CT hay chụp X-quang.' Nhưng nếu tôi có một quy tắc dự đoán, nó sẽ cho phép tôi thực hiện cuộc trò chuyện đó.
Sapien cho biết: “Một nghiên cứu cho thấy nó làm giảm tỷ lệ cấp cứu cộng đồng ở trẻ em bị thương ở đầu được chụp CT từ 29% xuống 17%. “Tôi nghĩ điều này cũng sẽ làm được điều tương tự. Các nhà cung cấp sẽ có thêm thông tin để có những cuộc trò chuyện với phụ huynh và gia đình. Nhiều khi gia đình không thoải mái lắm nếu tôi nói: 'Tôi không nghĩ con bạn cần chụp CT hay chụp X-quang.' Nhưng nếu tôi có một quy tắc dự đoán, nó sẽ cho phép tôi thực hiện cuộc trò chuyện đó.”
Sapien cho biết cách tiếp cận mới cũng mang lại lợi ích cho các bác sĩ.
Ông nói: “Nó mang lại sự hỗ trợ cho những nhà cung cấp đó và hy vọng sẽ làm giảm bớt phần nào sự lo lắng của họ”. “Nếu bạn không được đào tạo, ngay cả việc chăm sóc một đứa trẻ bị bệnh hoặc bị thương đôi khi cũng thực sự đáng sợ đối với những người cung cấp dịch vụ này. Điều này mang lại cho họ một công cụ ít nhất để họ cảm thấy thoải mái hơn với việc quản lý đó. Nó giúp ích cho bệnh nhân và nó cũng giúp ích cho các nhà cung cấp dịch vụ.”
Sapien ca ngợi các khuyến nghị của PECARN như một ví dụ về tính hiệu quả của các nghiên cứu lớn, đa địa điểm.
Ông nói: “Rất nhiều tình trạng trong số này hiếm gặp ở trẻ em đến nỗi không có một phòng cấp cứu nào thấy được nhiều trẻ em như vậy để có thể thực hiện các nghiên cứu khoa học chính xác và hợp lệ”. “Một mạng lưới nghiên cứu như thế này cho phép bạn đăng ký 22,000 trẻ em trên khắp đất nước vì bạn có tất cả các địa điểm nghiên cứu này thực hiện cùng một quy trình đối với những đứa trẻ này. Nó thực sự là một công cụ rất mạnh mẽ.”